TÓM TẮT LỊCH SỬ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA BINH ĐOÀN 12 – TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG TRƯỜNG SƠN
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh (5/1959 – 4/1975)
I. NHỮNG NGÀY ĐẦU THÀNH LẬP
Với thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 – 1954) buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ 7/1954 chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, đấu tranh thống nhất tổ quốc. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp, dựng lên chế độ tay sai, xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ, đàn áp dã man phong trào cách mạng, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta và thôn tính miền Bắc. Nhân dân ta tiếp tục cuộc chiến đấu chống xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Tháng 1/1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (khóa II) khẳng định phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh đổ quyền thống trị đế quốc, phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng.
Thực hiện chủ trương chi viện cho miền Nam, Bộ Chính trị quyết định tổ chức tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn. Ngày 19/5/1959, Thường trực Tổng Quân ủy chính thức giao nhiệm vụ cho “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” mở đường, vận chuyển hàng quân sự chi viện cho miền Nam; tổ chức đưa đón cán bộ, bộ đội; chuyển công văn, tài liệu từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Ngày 19/5/1959 trở thành ngày truyền thống của “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” – Đoàn 559 – “Tuyến đường Trường Sơn”- “Đường Hồ Chí Minh”.
Lực lượng ban đầu của Đoàn gồm 500 cán bộ, chiến sĩ được tổ chức thành tiểu đoàn giao liên vận tải 301 và các bộ phận: Xây dựng bảo quản kho, bao gói hàng, sửa chữa vũ khí, chế biến thực phẩm và vận chuyển vào chiến trường…
Đoàn 559 đã chọn Khe Hó, nằm giữa một thung lũng ở Tây Nam Vĩnh Linh là địa điểm xuất phát đầu tiên của tuyến đường lịch sử để tiến vào Trường Sơn soi đường, lập trạm và thực hiện phương thức vận chuyển bằng sức người gùi là chính đi trên con đường nhỏ hẹp. Khẩu hiệu có tính chất mệnh lệnh lúc này là “ở không nhà, đi không để dấu, nấu không để khói, nói không thành tiếng”. Các “đường dây” gùi hàng phải chủ động tránh địch, tránh cả dân để bảo toàn lực lượng, bảo đảm “tuyệt đối bí mật, an toàn” của tuyến đường.
Ngày 13/8/1959 chuyến hàng đầu tiên chính thức vượt Trường Sơn. Sau 8 ngày đêm vượt qua sông sâu, suối dữ, đèo cao và hệ thống đồn bốt chốt chặt nghiêm ngặt của địch, hàng được bàn giao cho chiến trường Trị Thiên (20 khẩu tiểu liên tuyn, 20 khẩu súng trường mát, 10 thùng đạn tiểu liên và đạn súng trường). Đây là một dấu mốc có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam, vì mỗi khẩu súng, viên đạn đến với chiến trường là thể hiện sự kết tinh của tình dân ý Đảng, là tình cảm của Bác Hồ, của nhân dân miền Bắc gửi gắm tới đồng bào, chiến sĩ miền Nam.
Cũng trong tháng 5/1959, Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn B90 tăng cường cho Liên khu V soi đường nối hai chiến trường Khu V và Nam Bộ, nối thông hành lang chiến lược Nam – Bắc. Đoàn B90 (gồm 25 cán bộ, chiến sĩ) ngày 20/6/1959 vượt thượng nguồn sông Bến Hải theo đường giao liên hành quân qua miền Tây Trị – Thiên vào Quảng Nam. Tiếp đó Liên khu V quyết định sáp nhập Đoàn B90 với đội vũ trang công tác tỉnh Đắc Lắc lấy phiên hiệu là B4 do đồng chí Bí thư tỉnh ủy Đắk Lắk phụ trách. B4 chia thành 2 bộ phận soi đường vào Nam Bộ.
Để đẩy mạnh việc chi viện cho miền Nam, đặc biệt là Nam Bộ, Khu 6; Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy chủ trương mở tuyến chi viện đường biển. Đoàn 559 được giao nhiệm vụ tổ chức tuyến vận tải này. Tháng 7/1959, tiểu đoàn 603 vận tải biển thuộc đoàn 559 được thành lập, biên chế 107 cán bộ, chiến sĩ (90% là đảng viên) đóng tại Cảng cá Thanh Khê (cách cửa sông Gianh, Quảng Bình 4km), lấy danh nghĩa là “Tập đoàn đánh cá miền Nam”, sau bàn giao cho Hải quân quản lý.
Như vậy, cuối năm 1959 tuyến hành lang giao liên vận tải quân sự Trường Sơn được thiết lập, thật sự trở thành cầu nối giữa căn cứ địa miền Bắc với chiến trường miền Nam.
Tuy mới nửa năm thành lập, vừa tổ chức vừa xây dựng lực lượng, vừa soi lối mở đường, vận chuyển vũ khí, trang bị chi viện cho miền Nam, đưa cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào Nam chiến đấu, tuyến vận tải quân sự chiến lược cũng như sự có mặt của từng con người, khẩu súng, viên đạn ở chiến trường lúc này (tuy còn ít ỏi) song có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trực tiếp góp phần đưa cách mạng miền Nam phát triển lên một cao trào mới – Cao trào “Đồng khởi”, mở ra một bước ngoặt mới của cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng luôn luôn theo dõi sát sao từng bước đi của Đoàn 559. Trong thư gửi Đoàn 559 nhân dịp Xuân Canh Tý (1960), Tổng Quân ủy đánh giá: “…Các đồng chí đã đảm nhận một nhiệm vụ rất vinh quang, góp phần cống hiến rất cụ thể vào sự nghiệp đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc của nhân dân ta… Tinh thần yêu nước, cách mạng cao, nên đã vượt mọi khó khăn gian khổ, đạt được những kết quả bước đầu rất tốt đẹp…”
II. TRƯỞNG THÀNH NHANH CHÓNG VÀ NHỮNG KỲ TÍCH ANH HÙNG CỦA ĐOÀN 559 – BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN – ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC VÀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUỐC TẾ VẺ VANG.
Phong trào cách mạng ở miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng phát triển mạnh mẽ. “Đồng khởi” thắng lợi. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, công cuộc giải phóng miền Nam bước vào giai đoạn mới, đòi hỏi sự chi viện lớn lao hơn về sức người, sức của từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa – hậu phương lớn của cả nước.
Do vị trí hết sức quan trọng của tuyến vận tải quân sự chiến lược – Đường Hồ Chí Minh, nên đế quốc Mỹ và tay sai đã tìm trăm phương, ngàn kế để đánh phá, ngăn chặn với đủ loại phương tiện, vũ khí chiến tranh hiện đại. Cuộc chiến đấu giữa ngăn chặn và chống ngăn chặn trên Đường Hồ Chí Minh đã diễn ra ngày càng quyết liệt.
Trước sự đòi hỏi ngày càng lớn của cách mạng miền Nam. Đoàn 559 phải phát triển nhanh chóng cả lực lượng và phương thức vận chuyển.
Với chân lý sáng ngời của Hồ Chủ tịch “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, cả nước đã đứng lên “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Từ trong sức mạnh đó, Đoàn 559 từ một đơn vị nhỏ bé ban đầu đã trưởng thành nhanh chóng, bao gồm đủ các lực lượng công binh, vận tải (ô tô, đường sông, đường ống), pháo cao xạ, bộ binh, giao liên, thông tin, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến… thực sự trở thành một hướng chiến trường tổng hợp, lực lượng hiệp đồng binh chủng trên quy mô lớn, đáp ứng sự lớn mạnh của các hướng chiến trường.
- Lực lượng ban đầu khi thành lập (5/1959), quân số 500 người
- Năm 1961, Bộ Quốc phòng quyết định nâng cấp Đoàn 559 lên tương đương cấp sư đoàn, quân số 6.000 người. Năm 1964, sau hơn 5 năm hoạt động, quân số lên đến 8.000 người; lực lượng được bố trí thành các tuyến (Tuyến 1, Tuyến 2, Tuyến 3).
- Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tháng 02/1966, Đoàn 559 giải tán các Tuyến, thành lập 7 binh trạm. Đến năm 1968 Đoàn 559 đã có 25 binh trạm, 23 trung đoàn; quân số lên đến 80.000 người.
- Tháng 7/1970, Bộ Tư lệnh 559 được đổi tên thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn (tương đương Quân khu). Các binh trạm được tổ chức thành các sư đoàn; gồm 8 sư đoàn, 1 đoàn chuyên gia (tương đương sư đoàn) 16 trung đoàn trực thuộc, 6 binh trạm; quân số năm 1972 là 90.500 người.
- Năm 1974, tổ chức của Bộ Tư lệnh Trường Sơn gồm: 7 cơ quan cấp cục, 9 sư đoàn, 25 trung đoàn trực thuộc; quân số lên đến hơn 10 vạn người (trong đó hơn 10 vạn bộ đội và hơn 1 vạn TNXP);
Về tên gọi: Giai đoạn 5/1959 – 4/1965: Đoàn công tác quân sự đặc biệt – Đoàn 559; giai đoạn 4/1965 – 7/1970: Bộ Tư lệnh 559; giai đoạn 7/1970 – 2/1976: Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Ngoài ra còn có các tên gọi khác: Đoàn vận tải Quang Trung, Bộ đội Trường Sơn, Tuyến chi viện Chiến lược Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh, Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh; Đường mòn Hồ Chí Minh (báo chí phương Tây).
Về phương thức vận chuyển, từ gùi thồ tiến lên vận tải bằng cơ giới, từ một tuyến cơ giới đã phát triển thành một mạng đường cả Đông và Tây Trường Sơn, phục vụ cho xe chạy ban đêm, “Đường kín” cho xe chạy ban ngày bất chấp dưới làn mưa bom, bão đạn của kẻ thù, chi viện sức người, sức của cho các chiến trường, làm nên cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, 1972, chiến thắng đường 9 Nam Lào. Đặc biệt là từ năm 1973 đến 1975, Bộ đội Trường Sơn đã nỗ lực vượt bậc, ra sức xây dựng cơ bản, tu sửa nâng cao chất lượng cầu đường đáp ứng yêu cầu của thời cơ chiến lược mới trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975. Chấp hành nghiêm mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, quán triệt phương châm “Thần tốc, táo bạo”, Bộ đội Trường Sơn đã nhanh chóng tổ chức vận chuyển hai chiều từng binh đoàn chủ lực lớn của quân đội ta, đưa một khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật lớn tới các chiến trường. Khi cuộc tổng tiến công phát triển xuống đồng bằng Trung Trung Bộ và Cực Nam Trung Bộ, Bộ đội Trường Sơn đã triển khai lực lượng công binh dọc theo Quốc lộ 1, bám sát các mũi tiến công của bộ binh, vừa tháo gỡ bom mìn, vừa nhanh chóng sửa chữa, bắc lại cầu mới cho đại quân ta tiến vào giải phóng các thành phố, thị xã và giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng 30/4/1975.
Suốt 16 năm chiến đấu ác liệt, gian khổ, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh, luôn luôn nắm vững tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động, sáng tạo, mưu trí, dũng cảm, không hề chùn bước trước bất cứ khó khăn, gian khổ, ác liệt nào. Cả Trường Sơn sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Lực lượng nào, đơn vị nào cũng có những sự tích anh hùng. Con đường nào, địa điểm nào cũng là mảnh đất thiêng liêng rực lửa. Bộ đội Đường Hồ Chí Minh đã thắng địch, “thắng trời” làm nên con đường huyền thoại – Đường Hồ Chí Minh, con đường đi tới độc lập, tự do của Tổ quốc.
- Lực lượng cầu đường đã nguyện làm “tường đồng, vách sắt” kiên cường bám trụ, giành giật lại từng thước đường, “máu có thể đổ, nhưng đường không thể tắc”. Một đường bị chặn, hai, ba đường mới xuất hiện. Đường chạy đêm bị đánh, đường chạy ngày “đường kín” xuất hiện. Địch đánh một, ta làm mười, các lực lượng công binh, thanh niên xung phong Trường Sơn đã làm nên mạng đường liên hoàn, vững chắc với 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang, nối Đông với Tây Trường Sơn vươn tới các chiến trường, với tổng chiều dài gần 2 vạn km đường ô tô, 1.400 km đường ống dẫn xăng dầu, 3.140 km “đường kín” cho xe chạy ban ngày và xây dựng hàng ngàn cầu, cống, ngầm….
- Lực lượng vận tải từ bí mật luồn rừng, mang vác tiến đến cơ giới hóa vận tải trên đường bộ, vận tải bằng đường sông, vận chuyển xăng dầu bằng đường ống hợp thành một binh chủng vận tải cơ giới phát triển đến đỉnh cao trong việc bảo đảm khối lượng cơ sở vật chất đồ sộ và cơ động đáp ứng yêu cầu của lực lượng chiến đấu chủ lực của Bộ cho các chiến trường. Trong cuộc chiến đầu ác liệt này, cán bộ, chiến sĩ, lái xe, thợ máy xứng đáng với danh hiệu “gan vàng, dạ ngọc”, thà hy sinh trên tay lái, “còn người, còn xe, còn hàng”; luôn luôn chủ động, táo bạo vượt lên trên tất cả mọi thủ đoạn xảo quyệt với những phương tiện hiện đại, sự đánh phá ác liệt của địch, để chạy đêm, chạy ngày, lấn sáng, lấn chiều, chạy đội hình nhỏ, chạy đội hình lớn, chạy cung ngắn, cung dài…tranh thủ mọi thời cơ, lợi dụng sở hở của địch, gây cho địch hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Kẻ địch dù rất hung hãn và giàu phương tiện chiến tranh hiện đại cũng đành bất lực.
- Lực lượng pháo phòng không, từ những phân đội nhỏ ban đầu, đã nhanh chóng phát triển thành những lực lượng chiến đấu lớn, đủ sức đánh địch trên không, bảo vệ thắng lợi công cuộc chi viện chiến lược. Cán bộ, chiến sĩ phòng không đã xứng đáng với danh hiệu “đánh giỏi, bắn trúng”, luôn luôn quay nòng pháo theo hướng xe lăn, đánh nhỏ, đánh lớn, đánh ngày, đánh đêm đều giỏi, đã bắn rơi 2.455 máy bay giặc Mỹ trên mục tiêu bảo vệ. Trong chiến dịch đường 9 – Nam Lào, lực lượng phòng không Bộ đội Đường Hồ Chí Minh tạo ra những lưới lửa dày đặc, đập tan chiến thuật cơ động ồ ạt bằng máy bay lên thẳng của Mỹ – Ngụy.
- Lực lượng bộ binh, từ những phân đội nhỏ đến Trường Sơn sớm nhất để bảo vệ tuyến đường, đã nhanh chóng hình thành sư đoàn, đủ sức đập tan những cuộc hành quân ngăn chặn của địch. Đỉnh cao nhất là góp phần đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ – Ngụy ra đường 9 – Nam Lào (1971). Bộ đội Trường Sơn đã chiến đấu hàng ngàn trận chống hành quân nống lấn, biệt kích, thám báo của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 18.000 tên địch, bắt sống 1.190 tên, thu và phá hủy hơn 100 xe quân sự và hàng nghìn súng các loại. Các đơn vị bộ binh Trường Sơn xứng đáng là lực lượng xung kích, liên tục tiến công tiêu diệt địch, giải phóng đất đai, tạo và mở rộng địa bàn hoạt động cho tuyến chi viện chiến lược. Các đơn vị làm nhiệm vụ vận động quần chúng, xây dựng cơ sở giúp bạn Lào luôn luôn nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần tăng cường tình hữu nghị Việt – Lào.
- Lực lượng giao liên, với đôi chân vạn dặm bảo đảm hành quân, đưa đón bố trí nơi ăn ở cho hàng triệu lượt cán bộ, chiến sỹ, thương, bệnh binh vào, ra các chiến trường an toàn, bí mật, xứng đáng với 10 chữ vàng “tận tình với đồng chí, tận nghĩa với chiến trường”.
Cán bộ cơ quan chỉ huy, lực lượng thông tin, cơ yếu, quân y; lực lượng kỹ thuật, đội ngũ làm công tác văn hóa văn nghệ… đã ngày đêm bám sát tuyến đường phục vụ đắc lực cho công tác chỉ huy và các lực lượng khác hoàn thành nhiệm vụ.
Các lực lượng bộ đội Đường Hồ Chí Minh càng chiến đấu, càng trưởng thành vững chắc về mọi mặt (đã đào tạo, bồi dưỡng hàng vạn cán bộ từ trung đội đến trung đoàn, hàng vạn lái xe, thợ sửa chữa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ). Thường xuyên tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng và công tác Đảng, công tác chính trị; coi trọng tổng kết thực tiễn nên đã giải quyết thành công nhiều vấn đề khó khăn, thử thách, ác liệt của thực tiễn chiến trường; tác chiến hiệp đồng binh chủng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, Quân đội, nhân dân giao phó.
Suốt 16 năm, đường Trường Sơn luôn luôn trở thành trọng điểm ngăn chặn quyết liệt của địch. Trường Sơn là chiến trường thực nghiệm chiến lược “chiến tranh ngăn chặn”, “chiến tranh bóp nghẹt” bằng các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và các loại vũ khí, thiết bị tối tân, hiện đại của nền khoa học công nghệ của đế quốc Mỹ. Núi rừng Trường Sơn luôn luôn rung chuyển, bị cày đi xới lại bởi gần 4 triệu tấn bom đạn, chất độc hóa học của địch trút xuống, gây nhiều tổn thất về người, phương tiện vật chất và môi trường sinh thái trên tuyến Đường Hồ Chí Minh. Hơn hai vạn cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn hy sinh, hơn 3 vạn cán bộ, chiến sĩ bị thương và hàng vạn người mang thương tích do nhiễm chất độc da cam/dioxin; 14.500 xe máy, 703 súng pháo và hơn 90.000 tấn hàng hóa bị phá hỏng.
Bằng sự cống hiến, hy sinh to lớn của mình, bộ đội Đường Hồ Chí Minh đã lập nên kỳ tích anh hùng, làm nên con đường huyền thoại, góp phần to lớn vào sự toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Bộ đội đường Hồ Chí Minh xứng đáng được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và tặng Huân chương Hồ Chí Minh. 82 đơn vị, 51 cá nhân được tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngoài ra, hàng trăm đơn vị, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương các loại.
Toàn bộ cuộc chiến đấu của Đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh là một kỳ tích, một điểm sáng, một dấu son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.
Thời gian sẽ lùi sâu về quá khứ nhưng huyền thoại về Đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước vẫn mãi mãi ngời sáng trong trang sử oanh liệt của dân tộc ta như một thiên anh hùng ca bất tử tô thắm truyền thống đánh giặc, giữ nước của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, dân tộc Việt Nam anh hùng, tiếp thêm sức mạnh cho mọi thế hệ bảo vệ và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
“Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng sự đóng góp của bộ đội Đường Hồ Chí Minh, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến vào công cuộc chi viện cho các chiến trường sẽ mãi mãi ghi vào trang sử oanh liệt của dân tộc ta, của quân đội ta như một thiên anh hùng ca bất diệt…”
(Trích văn bia Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn)
Binh đoàn 12 – Tổng CTXD Trường Sơn kế tục truyền thống Bộ đội Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh thời kỳ xây dựng kinh tế kết hợp với Quốc phòng
I. KẾT THÚC NHIỆM VỤ LỊCH SỬ TRONG CHIẾN TRANH GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC, BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN CHUYỂN SANG LÀM NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1977 – 1988)
Sau khi chiến tranh kết thúc, đầu tháng 7/1975, Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn chuyển sang làm kinh tế.
Đầu năm 1976, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất bộ đội Trường Sơn và Bộ Tư lệnh Công binh thành Bộ Tư lệnh Công trình, đến tháng 3/1976 Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế thay cho Bộ Tư lệnh công trình. Ngoài lực lượng của bộ đội Trường Sơn trước đây, còn được bổ sung từ các lực lượng khác trong toàn quân, quân số lên tới 28 vạn người.
Binh đoàn 12, lực lượng chủ yếu của Bộ đội Trường Sơn được thành lập 10/1977 từ những đơn vị chuyên làm cầu đường ở Trường Sơn trong chiến tranh. Binh đoàn đảm nhiệm xây dựng cơ bản đường đông Trường Sơn, xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện, đường giao thông trên các vùng chiến lược quan trọng của đất nước.
Khi chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, Binh đoàn 12, lực lượng chủ yếu còn lại của bộ đội Trường Sơn chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng, nhiệm vụ chủ yếu xây dựng cầu đường chiến lược, chiến dịch phục vụ nhiệm vụ xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trước mắt làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu ở mặt trận Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Với truyền thống bộ đội Trường Sơn anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ bước vào mặt trận mới xây dựng kinh tế đất nước kết hợp với quốc phòng, với tinh thần cách mạng tiến công, không một ngày nghỉ ngơi sau chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng Binh đoàn 12 lại có mặt ở những nơi khó, việc khó trải ra trên địa bàn 21 tỉnh, thành trong nước và 5 tỉnh của nước bạn Lào. Phần lớn là ở địa bàn biên giới xa xôi, núi rừng hẻo lánh, nhiều gian khổ, khí hậu khắc nghiệt, lắm bệnh tật, lại thường xuyên có hoạt động của bọn FULRO, bọn phỉ phá hoại.
Nhiệm vụ chủ yếu đầu tiên của Binh đoàn là xây dựng cơ bản Đường Hồ Chí Minh dọc theo Đông Trường Sơn. Có tổng chiều dài 1.920km, đường 9, đường sắt thống nhất đoạn Minh Cầm – Tiên An, xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng, các khu kinh tế mới ở Tây Nguyên, kết hợp sản xuất với sẵn sàng chiến đấu bảo vệ an ninh quốc phòng trên địa bàn hoạt động. Năm 1978 trước yêu cầu xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, đặc biệt là khi xẩy ra chiến tranh biên giới phía Bắc, Bộ Quốc phòng có Quyết định số 861/QĐ-QP ngày 28/8/1979, kiện toàn Binh đoàn 12 là Binh đoàn cầu đường chiến lược, tiếp nhận toàn bộ đơn vị cầu đường của Tổng cục Xây dựng kinh tế, chuyển trụ sở từ tỉnh Gia Lai về Hà Nội, với lực lượng cao nhất gồm 8 sư đoàn (31 trung đoàn), 2 trung đoàn vận tải, 2 xí nghiệp cơ khí sửa chữa, 1 Viện khảo sát thiết kế, 5 trường đào tạo huấn luyện, tổng quân số trên 38.000 người. Đơn vị đã tập trung xây dựng quốc lộ 279, đường vành đai chiến lược nối thông các tỉnh biên giới phía Bắc, từ Quảng Ninh đến Tây Trang (Lai Châu) dài hơn 1.000km. Ngoài ra, Binh đoàn đã triển khai các lực lượng xây dựng, nâng cao hàng trăm km đường bộ, quốc lộ 6,7,8,9,18, đường Na Pheo – Si Pha Phìn (Lai Châu), Văn Quán – Na Sầm (Lạng Sơn), đường Quyết thắng v.v.., tham gia xây dựng các tuyến đường sắt: Chí Linh – Phả Lại, Cao Sơn – Mông Dương, Phố Lu – Cam Đường; Mai Pha – Na Dương, Quán Triều – Núi Hồng với gần 250km, hàng chục cầu cống và nhà ga.
Cùng với nhiệm vụ xây dựng cầu đường bộ, đường sắt, Binh đoàn 12 còn tham gia xây dựng hàng loạt công trình quan trọng, trọng điểm của Nhà nước như: Thủy điện Hòa Bình, thủy điện Đray Hling, Apatít (Lào Cai), thiếc Quỳ Hợp, khai thác than (Quảng Ninh), trồng cà phê (Tây Nguyên)….
Vốn đã gắn bó với nhân dân Lào từ nhiều năm trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ ở Trường Sơn, sau khi ngừng tiếng súng, thực hiện Hiệp định được ký kết giữa hai nước, một số đơn vị của Binh đoàn tham gia xây dựng cơ bản 9 tuyến đường của bạn Lào (đường 1, 5, 7, 8, 9, 13, 23 …) với tổng chiều dài hơn 260km; xây dựng một số công trình kinh tế, văn hóa ở 4 tỉnh (12 trạm xá, 7 trường học và nhiều trụ sở làm việc của các cấp chính quyền); huy động hàng ngàn chuyến xe vận chuyển giúp bạn hàng ngàn tấn lương thực.
Với thành tích giúp bạn Lào, 5 tập thể gồm 3 Trung đoàn: E185, E509, E6; Đại đội 3/E509, Đội 25/E245 đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Kết quả hơn 10 năm của thời kỳ 1977 – 1988 Binh đoàn đã mở mới, sửa chữa nâng cấp được trên 5.500 km đường (trên 500km đường nhựa); 5.147m cầu, 31.758m cống bê tông, đào đắp hàng chục triệu m3 đất đá. Tên tuổi của Binh đoàn 12 gắn liền với nhiều công trình trọng điểm của Nhà nước. Những con đường, chiếc cầu, nhà máy…do Binh đoàn xây dựng chính là những công trình kinh tế kết hợp quốc phòng, vừa góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, vừa góp phần phát triển kinh tế miền núi và tăng cường củng cố tình hữu nghị đặc biệt Việt – Lào.
II. BINH ĐOÀN 12 – TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG TRƯỜNG SƠN LÀ DOANH NGHIỆP KINH TẾ – QUỐC PHÒNG, TỰ HẠCH TOÁN KINH DOANH TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG (1989 – 2019)
Đầu năm 1989, thực hiện sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế của cả nước, theo quyết định của Nhà nước và Bộ Quốc phòng, Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn được thành lập trên cơ sở tổ chức biên chế và các lực lượng của Binh đoàn 12, là doanh nghiệp kinh tế – quốc phòng, tự hạch toán, tự trang trải và trực thuộc Bộ Quốc phòng. Từ đây đơn vị có 2 phiên hiệu: Binh đoàn 12 và Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12 sử dụng trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn sử dụng trong giao dịch kinh tế); với các ngành nghề kinh doanh chủ yếu: Xây dựng công trình giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện, sân bay, bến cảng, công trình công nghiệp, dân dụng; đường dây tải điện và trạm biến thế, công trình cấp thoát nước và công trình khác; xây dựng, kinh doanh phát triển nhà và bất động sản; khảo sát thiết kế và tư vấn xây dựng; sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng; sản xuất, sửa chữa máy móc thiết bị sản phẩm cơ khí xây dựng; xuất nhập khẩu vật tư, vật liệu xây dựng, máy móc thiết bị phục vụ xây dựng của Tổng công ty; Đào tạo nghề và cung ứng lao động trong nước; dò tìm, xử lý bom, mìn, vật liệu nổ.
Trực thuộc Binh đoàn là các công ty, xí nghiệp, tự hạch toán, tự trang trải và 2 đơn vị Binh đoàn phải bao cấp là Trường Trung cấp Cầu đường & dạy nghề và Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh. Đây là thời kỳ Binh đoàn 12 – Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn đứng trước những khó khăn, thử thách mới trong sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt của cơ chế thị trường. Binh đoàn không còn được bao cấp về chi phí và bảo đảm việc làm như trước đây, phải chuyển đổi hoàn toàn cơ chế hoạt động, thực sự bước vào hạch toán độc lập thông qua phương thức đấu thầu là chủ yếu, tự lo việc làm, tự lo đời sống người lao động, kể cả tiền lương, ăn, mặc vv… cho hàng ngàn cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên và nộp ngân sách cho Nhà nước theo quy định; bảo đảm cân đối, có lãi để tái sản xuất mở rộng. Trong khi đó thiết bị phần lớn đã cũ, không đồng bộ, cùng với những hạn chế về chuyên môn kỹ thuật và quản lý kinh tế của cán bộ trước đòi hỏi của cơ chế mới còn thiếu cả về số lượng và chất lượng.
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Bộ đội Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh anh hùng và kinh nghiệm qua hơn 10 năm làm kinh tế kết hợp với quốc phòng (1977 – 1989), với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ kỹ thuật có kinh nghiệm thực tiễn và bản lĩnh chính trị vững vàng đã giúp cho Tổng Công ty từng bước vượt qua giai đoạn đầu đầy khó khăn thử thách của thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường. Để duy trì sự ổn định và phát triển, Đảng uỷ và chỉ huy Tổng công ty đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện, sắp xếp tổ chức lại bộ máy đảm bảo tinh, gọn, phù hợp với mô hình đơn vị làm kinh tế (giảm trên 2 vạn quân, trong đó có 3.500 sỹ quan). Các cơ quan Binh đoàn chuyển từ cấp cục xuống phòng theo chức năng phù hợp với cơ cấu bộ máy tổng công ty. Các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn chuyển thành các công ty, xí nghiệp nhưng vẫn duy trì chế độ, kỷ luật nền nếp của Quân đội. Tổng công ty luôn coi trọng và xác định nhiệm vụ xuyên suốt là sản xuất kinh doanh phải đúng hướng, đúng pháp luật, đúng quy định của Bộ Quốc phòng và có hiệu quả; kết hợp chặt chẽ với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; kinh tế kết hợp với quốc phòng; hiệu quả kinh tế gắn với hiệu quả chính trị – xã hội; phát huy thế mạnh truyền thống và sức mạnh tổng hợp; kết hợp động viên tinh thần với khuyến khích vật chất, kết hợp chặt chẽ lợi ích Nhà nước, tập thể và người lao động, chăm lo lợi ích người lao động, coi đó là động lực trực tiếp thúc đẩy sản xuất. Trong sản xuất kinh doanh luôn kiên trì định hướng “Lấy xây dựng cơ bản làm chủ yếu, trong đó xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông là trung tâm, kết hợp với kinh doanh tổng hợp… nhanh chóng tiếp cận thị trường, tích cực đầu tư đổi mới thiết bị hiện đại; tiếp thu, áp dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao; luôn coi trọng “chữ tín” với khách hàng”.
Tổng công ty đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để đổi mới trang thiết bị, công nghệ; bình quân mỗi năm đầu tư hàng trăm tỷ đồng để mua sắm thiết bị thi công, nâng tổng số xe máy, thiết bị của Tổng công ty đến nay lên hơn 2.500 chiếc. Trong đó có nhiều thiết bị thi công cầu, đường, thủy điện, thủy lợi, các công trình sân bay, bến cảng theo công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu thi công các công trình lớn trong nước và quốc tế có quy trình kỹ thuật cao như: Máy cắm bấc thấm, đóng cọc cát xử lý nền yếu; công nghệ khoan cọc nhồi, dầm dự ứng lực khẩu độ lớn, đúc hẫng cân bằng trong thi công cầu; khoan tự hành, trạm trộn bê tông lạnh, công nghệ thi công bê tông đầm lăn trong thi công công trình thuỷ điện; dây truyền công nghệ thi công đường cao tốc; một số loại xe máy thi công đào đắp và vận chuyển có công suất lớn vv…
Đội ngũ sỹ quan duy trì ở mức độ hợp lý, còn lại chủ yếu là quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng và lao động hợp đồng. Đội ngũ lao động có kỹ thuật chiếm trên 90% quân số, trong đó trên đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp chiếm trên 53,8% quân số.
Tổng công ty đã thi công và bàn giao hàng ngàn công trình trên khắp mọi miền của Tổ quốc, góp phần xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội và củng cố quốc phòng an ninh, ngày càng khẳng định được vị trí, uy tín của mình trên các công trình trọng điểm của Nhà nước như: Thuỷ điện Sơn La, Lai Châu, thủy điện Thác Mơ mở rộng; thuỷ điện Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Srêpok3 (Đắc Lắc), trong đó làm tổng thầu xây dựng nhà máy thuỷ điện Srêpok3, đường dây 500KV Bắc – Nam; công trình thủy lợi Hồ Tả Trạch/Thừa Thiên Huế, thủy lợi Ngàn Trươi/Hà Tĩnh; đường ô tô bắc Thăng Long – Nội Bài, Quốc Lộ 1A (đoạn Pháp Vân – Cầu Giẽ, Vinh – Đông Hà, Huế – Hải Vân, đoạn qua tỉnh Phú Yên); QL5 (đoạn km 30 – 47, km 47 – 62); QL6 (đoạn Hoà Bình – Sơn La); QL18 (đoạn Biểu Nghi – Bãi Cháy); cầu và đường dẫn hầm đường bộ Hải Vân, cầu Bãi Cháy – Quảng Ninh; đường Hồ Chí Minh CNH (đoạn Khe Gát – Tăng Ký/Quảng Bình và đoạn La Sơn – Túy Loan), đường Trường Sơn Đông, đường tuần tra biên giới; QL78 – Campuchia; đường cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh, Cầu Giẽ – Ninh Bình, TP Hồ Chí Minh – Trung Lương, TP Hồ Chí Minh – Long Thành – Giầu Dây, Hà Nội – Thái Nguyên, Đà Nẵng – Quảng Ngãi; Khu công nghệ cao Hòa Lạc, kè biển Khu Quân cảng Cam Ranh, cảng quốc tế Cái Mép – Thị Vải, cảng hành khách quốc tế Phú Quốc, Cảng Tân Vũ – Lạch huyện, xây dựng Luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào Sông Hậu; sân bay Điện Biên, sân bay Vinh, sân bay Buôn Ma Thuột, sân bay Savanakhẹt (Lào)… Các công trình Tổng công ty tham gia thi công đều đảm bảo tiến độ, chất lượng và hiệu quả. Trong đó có 5 công trình được tặng Huy chương vàng chất lượng cao và Bằng chứng nhận công trình chất lượng tiêu biểu thập kỷ 90 (thế kỷ XX).
Với định hướng đúng đắn và sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên chức, lao động quốc phòng, Tổng công ty đã từng bước phấn đấu vươn lên tự khẳng định mình. Qua 30 năm (1989 – 2019) xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, tự hạch toán, tự trang trải; giá trị sản xuất không ngừng tăng trưởng (bình quân 15%/năm); thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách với Nhà nước; đạt chỉ tiêu lợi nhuận; thu nhập bình quân người lao động bằng 1,3 – 1,4 lần lương quốc phòng; giữ gìn và tăng cường tiềm lực quốc phòng.
Có thể khẳng định, với kết quả sản xuất kinh doanh và năng lực của Binh đoàn 12 – Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn hiện nay là một trong những tổng công ty mạnh trong lĩnh vực xây dựng công trình giao thông cầu đường, xây dựng thủy điện, thủy lợi. Có đủ khả năng xây dựng các công trình trọng điểm, các công trình có quy mô lớn trong nước và quốc tế.
Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hằng năm Binh đoàn luôn hoàn thành tốt các chương trình, nội dung huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị cho các đối tượng; duy trì nghiêm chế độ, kỷ luật quân đội. Thường xuyên chăm lo xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; luôn chủ động và tích cực tham gia và làm tốt công tác dân vận, công tác chính sách xã hội và hậu phương Quân đội như: Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, xoá đói giảm nghèo, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam Anh hùng, xây dựng và tặng nhà tình nghĩa, nhà đồng đội; tặng sổ tiết kiệm, thăm và tặng quà cho thương, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ, gia đình chính sách, gia đình quân nhân có hoàn cảnh khó khăn; ủng hộ quỹ “Ngày vì người nghèo”; quỹ trẻ em bị nhiễm chất độc da cam/dioxin, quỹ khuyến học; giúp đỡ đồng bào bị bão lụt, thiên tai, các gia đình có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn đóng quân; xây dựng và hỗ trợ kinh phí nâng cấp các cơ sở y tế, trường học, giao thông nông thôn; khám và cấp thuốc miễn phí cho hàng ngàn lượt người ở các địa phương, chủ yếu là đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng; tiếp đón và giải quyết chính sách tồn đọng về khen thưởng, thương binh, liệt sỹ vv… của Bộ đội Trường Sơn và TNXP cho trên 20 ngàn lượt người; xây dựng 43 bia di tích lịch sử dọc đường Hồ Chí Minh từ Tân Kỳ (Nghệ An) đến Bình Phước; Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh qua 20 hoạt động đã đón hàng trăm vạn lượt khách trong và ngoài nước đến tham quan; Kinh phí chi cho thực hiện công tác dân vận, chính sách xã hội hàng trăm tỷ đồng;
Với thành tích xây dựng kinh tế – quốc phòng thời kỳ đổi mới (1990 đến nay), Binh đoàn 12 – Tổng CTXD Trường Sơn được Nhà nước tặng thưởng HCLĐ hạng nhất (thành tích thi công Đường Hồ Chí Minh), 2 Huân chương Quân công hạng Nhất, hạng Nhì; Huân chương Lao động hạng Nhì (thành tích thi công thủy điện Lai Châu), 2 Huân chương Lao động hạng Ba (thành tích thi công thủy điện Buôn Kuôp, thủy điện Sơn La); 3 tập thể và 3 cá nhân được tặng Danh hiệu Anh hùng lao động; 6 cá nhân, 21 lượt tập thể được tặng Huân chương Lao động các hạng; 42 tập thể, 116 cá nhân được tặng BK của Thủ tướng Chính phủ, cờ thi đua và BK của các bộ, ngành. Đặc biệt năm 1999, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Sao vàng cho các thế hệ Bộ đội Trường Sơn, do có thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Binh đoàn 12 – Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn luôn luôn giữ vững và phát huy truyền thống của Bộ đội Trường Sơn Anh hùng, trung thành với Đảng, với Tổ Quốc và nhân dân, bất cứ trong hoàn cảnh nào, điều kiện nào cũng chấp hành nghiêm mệnh lệnh trên giao và thực hiện với quyết tâm cao nhất. Từ bám trụ trên Trường sơn, Tây Nguyên, đến triển khai lực lượng trên vùng xa xôi hẻo lánh ở biên giới, hải đảo, bất cứ ở đâu, nhiệm vụ nào, Binh đoàn cũng đem hết sức mình hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định sự tồn tại và phát triển của Tổng công ty trong cơ chế thị trường, làm kinh tế có hiệu quả kết hợp tốt kinh tế với quốc phòng, giữ gìn được uy tín của đơn vị Quân đội làm kinh tế, đưa Tổng công ty trở thành doanh nghiệp kinh tế – quốc phòng mạnh của Quân đội; góp phần cùng với các doanh nghiệp Nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trực tiếp là Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng; được sự giúp đỡ tận tình của cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương; sự phối hợp hiệp đồng có hiệu quả của các cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội; các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức, lao động quốc phòng Đoàn 559 – Bộ đội Trường sơn – Binh đoàn 12 – Tổng Công ty xây dựng Trường sơn luôn phát huy bản chất tốt đẹp, truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng, trung thành với Đảng, với Tổ Quốc và nhân dân; đoàn kết, mưu trí, kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu; tích cực, chủ động, sáng tạo trong lao động sản xuất và công tác, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành thắng lợi trọn vẹn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tư liệu, sự kiện tham khảo
1. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước nói về Bộ đội Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ trên tuyến đường: “…Phải tận dụng thiên thời, địa lợi, nhân hòa, khẩn trương mở mới, kéo dài đường gùi, thồ đông Trường Sơn; thống nhất với bạn Lào, sớm mở đường vận tải biên giới tây Trường Sơn. Quân và dân miền Nam cũng như hai nước bạn Lào, Cămpuchia rồi phải đánh lớn cần nhiều binh lực, vũ khí, các chú phải chăm lo sức khỏe, phát triển tổ chức lực lượng kịp thời với yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời phải chăm lo muối ăn, thuốc chữa bệnh, vải mặc”…
Mùa Xuân năm 1973, Đồng chí Lê Duẩn-Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào thăm Bộ đội Trường Sơn, ghi trong cuốn sổ vàng truyền thống Bộ đội Trường Sơn: “… Đường Trường Sơn là một chiến công chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Đường Trường Sơn là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách Anh hùng. Đó là con đường nối liền Nam Bắc, thống nhất nước nhà, là con đường của tương lai giàu có của Tổ quốc ta. Đó cũng là con đường đoàn kết các dân tộc của ba nước Đông Dương.
Đường Trường Sơn nhất định sẽ kéo dài và mở rộng, chúng ta nhất quyết đi tiếp con đường đó cho đến thắng lợi hoàn toàn.
Quang vinh thay Bộ đội Trường Sơn Anh hùng đã chiến đấu và chiến thắng trên con đường mang tên Bác Hồ vĩ đại …”
(Lịch sử Đoàn 559-Bộ đội Trường Sơn, Nxb QĐND-1999- trang 513)
Mùa xuân năm 1974 Đồng chí Trường Chinh – Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội vào thăm Bộ đội Trường Sơn. Trong cuốn sổ vàng truyền thống Bộ đội Trường Sơn, đồng chí Trường Chinh viết: “… Với sự lao động cần cù, sáng tạo và tinh thần dũng cảm hy sinh, các đồng chí đã đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp kháng chiến của dân tộc, làm cho kẻ thù khiếp sợ, cả nước yêu thương, nhân dân các nước anh em và nhân dân thế giới khâm phục….Các đồng chí hãy luôn luôn xứng đáng và ngày càng xứng đáng là những người chiến sĩ được chiến đấu trên tuyến đường mang tên Bác Hồ vĩ đại…”
Trong diễn văn kỷ niệm Quốc khánh 2/9/1975, do Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc có đoạn: “… Con đường Hồ Chí Minh xuyên qua dãy núi Trường Sơn hùng vĩ và nối liền Nam – Bắc là một kỳ công trong lịch sử chiến tranh, là biểu hiện oai hùng của sức mạnh đoàn kết chiến đấu của nhân dân cả nước. Địch càng dùng trăm phương ngàn kế để ngăn chặn nó, đánh phá nó thì nó càng phát triển nhanh chóng và vững chắc theo nhịp độ của chiến tranh, để đến mùa Xuân năm 1975 góp phần quan trọng vào thắng lợi huy hoàng giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu…
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, UV Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam nhân chuyến thăm Bộ đội Trường Sơn năm 1973 đã ghi trong sổ vàng truyền thống: “…Con đường Trường Sơn thể hiện quyết tâm sắt đá của Đảng ta, dù khó khăn gian khổ đến mấy cũng giải phóng bằng được miền Nam thân yêu, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc.
Bộ đội Trường Sơn đã thấm nhuần sâu sắc quyết tâm chiến lược của Đảng, nêu cao tinh thần dũng cảm tuyệt vời, phát huy cao độ trí thông minh và sáng tạo, nhờ vậy mà dưới mưa bom, lửa đạn của quân thù, một hệ thống giao thông huyết mạch đã được xây dựng, vượt qua các triền núi trùng điệp, vượt qua biết bao con suối, biết bao ngọn đèo, mang sức mạnh chi viện to lớn về người, về của cải hậu phương lớn đến tiền tuyến lớn, góp phần trọng đại đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi to lớn ngày nay.
Con đường Trường Sơn là đường nối liền Bắc-Nam, con đường thống nhất đất nước, cũng là con đường của tinh thần đoàn kết quốc tế, mang sự ủng hộ và giúp đỡ hết lòng của nhân dân ta đối với nhân dân nước Lào anh em, nhân dân nước Căm pu chia anh em. Tiền đồ con đường Trường Sơn rất vẻ vang, khả năng của Bộ đội Trường Sơn rất là to lớn.
Thành tích chiến đấu, công tác và xây dựng trong suốt 14 năm của các lực lượng vũ trang, của các lực lượng Bộ đội Trường Sơn là một trong những thành công kiệt xuất của đường lối chính trị và quân sự của Đảng ta, là những kinh nghiệm quý báu làm phong phú khoa học và nghệ thuật quân sự của nước ta. Các đồng chí tiếp tục phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất, luôn dương cao ngọn cờ cách mạng không ngừng để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ mới”…
Chúc các chiến sĩ anh dũng trên con đường Hồ Chí Minh lập nên chiến công rạng rỡ hơn nữa, góp phần cống hiến xứng đáng hơn nữa vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn đất nước thân yêu, xây dựng Tổ quốc Việt Nam ta giàu đẹp”.
Trong bài phát Biểu của đồng chí Nguyễn Phú Trọng – Chủ tịch Quốc Hội tại lẽ kỷ niệm 50 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh – Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn đã ghi: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng sự tích về Đường Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh- Dấu ấn về một thời kỳ chói lọi của cách mạng Việt Nam, không bao giờ phai mờ; trái lại, nó càng được ghi nhớ, trân trọng, mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta và sẽ đi vào lịch sử như một kỳ tích của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Tầm vóc to lớn và những bài học quý báu của Đường Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trước đây, mà còn có giá trị thiết thực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay”…
2. Các nhà quân sự và báo chí trên thế giới nói về Đường Hồ Chí Minh;
- Tướng RICHARD STILWEL: Tư lệnh cơ quan viện trợ Mỹ ở Thái Lan (MAC) nói với phóng viên hãng UPI trong cuốn cuộc xung đột ở Lào (A Conflict in Laos): “Một nhận định của Mỹ vào cuối năm 1967 cho là: Cần phải có một quân đoàn lính Mỹ tham chiến mới cắt được con đường mòn trong ba tháng. Cần phải có nửa triệu quân (tức là ngang với số quân Mỹ đang tham chiến ở Việt Nam lúc đó) thì mới có thể làm cho con đường đó thường xuyên bị cắt”.
- Tướng ABRAMS (Phó Tham mưu trưởng lục quân Mỹ): ” Hiện nay mạng đường (Đường Hồ Chí Minh) này có thể vận chuyển đủ đáp ứng nhu cầu của tất cả lực lượng quân đội Bắc Việt Nam và Việt Cộng hoạt động trong hai phần ba của Việt Nam ở phần phía Bắc. Chứng cớ là quân Bắc Việt Nam đã mở trận đánh dữ dội vào sư đoàn 1 (kỵ binh Mỹ), để chặn quân đội Mỹ không cho tiến vào vùng núi phía trên Pleimè. Trong trận này, Bắc Việt đã tiêu thụ một số lớn đạn dược. Cuộc chiến khốc liệt bằng mọi giá này của Bắc Việt khiến nhiều người Mỹ nghĩ rằng vùng này là một kho dự trữ quan trọng của Cộng quân”…
- VAN GEIRT (Nhà báo) trong cuốn Đường Hồ Chí Minh viết: “…Với mục đích kể lại lịch sử con đường này, tôi đã phải viết lại lịch sử Việt Nam, bởi vì không thể có con đường mòn Hồ Chí Minh nếu không có lịch sử Việt Nam; nhưng lịch sử con đường mòn này cũng làm sáng tỏ thêm lịch sử Việt Nam. Đối với con đường Hồ Chí Minh… Muốn chiếm được nó, phải chiếm đóng mỗi milimet vuông của Lào, Cao Miên và cả miền Bắc cũng như miền Nam Việt Nam. Tất cả quân đội của thế giới này may ra mới đủ! Một quả bom, ngoài việc phá hoại môi trường, vẫn không đụng đến được bản chất của những con người…”
3. Những con số – kỷ lục – sự kiện của Đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đoàn 559- Bộ đội Trường sơn đã thực hiện:
- Đào đắp, san lấp khoảng 29 triệu m3 đất, đá.
- Xây dựng mạng đường bộ gồm 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang ở Đông và Tây Trường Sơn với tổng chiều dài gần 2 vạn km; 1 tuyến đường “kín” dài 3.140km; hệ thống đường sông dài 500km.
- Xây dựng hệ thống đường ống dẫn xăng, dầu dài 1.400km nối từ tuyến của hậu phương ở Quảng Bình, Vĩnh Linh vào tới Bù Gia Mập (Bình Phước) miền Đông Nam bộ. Trên tuyến có 113 trạm bơm đẩy, 33 trạm cấp phát xăng dầu. Từ năm 1968 đến năm 1975 đã nhập vào tuyến 317.596 tấn và cấp phát cho các chiến trường.
- Xây dựng trên 4.000 Km đường dây trần dùng cho máy tải ba, 11.569 Km đường dây bọc thông tin hữu tuyến, 384 Km dây cáp và các thiết bị như: 299 bộ máy thu phát sóng ngắn, 163 bộ tải ba (loại 1, 3, 6, 12 kênh); 590 tổng đài (từ 10, 30, 100 số); 15 xe điện đài (15w, 500w, tiếp sức 401 và 104 AM).
- San lấp 78.000 hố bom.
- Phá 12.600 quả bom từ trường, 8.000 bom nổ chậm, 85.100 mìn các loại.
- Đánh 2.500 trận bộ binh, loại khỏi vòng chiến đấu 18.740 tên địch, bắt sống 1.190 tên; thu, phá huỷ hơn 100 xe quân sự, hàng ngàn súng các loại.
- Bắn rơi 2.455 máy bay các loại.
- Vận chuyển, tổ chức hành quân hơn 2 triệu lượt bộ đội, cán bộ dân, chính Đảng vào, ra qua Trường Sơn; vận chuyển tới các chiến trường hơn một triệu tấn hàng quân sự, vật chất kỹ thuật, vũ khí đạn dược.
- Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, ngoài tuyến Tây và Đông Trường Sơn còn đảm bảo giao thông toàn bộ tuyến đường Quốc lộ 1 và 7 tuyến đường ngang khác, bắc lại 88 cầu. Sử dụng trên 2.000 xe ô tô của hai sư đoàn 571, 471 chở 10 lượt sư đoàn, 3 quân đoàn chủ lực, hộ tống 90 đoàn binh khí kỹ thuật và chở bổ sung 40 vạn quân vào các chiến trường. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh đã cấp phát 4.100 tấn xăng dầu cho các đơn vị tham gia chiến dịch.
- Trong quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn có gần 20.000 cán bộ, chiến sỹ đã anh dũng hy sinh, hơn 32.000 người bị thương đồng chí Nguyễn Minh Thông, quê Nghệ An) là người liệt sỹ đầu tiên, hy sinh tháng 10/1959.
- Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn hiện nay là nơi yên nghỉ của hơn 10.263 liệt sỹ Bộ đội Trường Sơn.
- Đồng chí Phan Mài đã gùi nặng 100kg trong nhiều chuyến liền. Đồng chí Nguyễn Thiều, thồ xe đạp mỗi chuyến 420kg.
- Ngày 20/8/1959 chuyến hàng gùi thồ đầu tiên từ Khe Hó (Tây nam Vĩnh Linh) vào bàn giao cho Liên khu 5 gồm: 20 khẩu súng tiểu liên Tuyn, 20 khẩu súng trường Mát, 10 thùng đạn tiểu liên và súng trường.
- Ngày 9/8/1964, ngày đầu tiên Trung đoàn 98 đơn vị Anh hùng thực hiện mở đường cơ giới lên Trường Sơn.
- Ngày 24/7/1965, Tiểu đoàn 20 cao xạ bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên trên tuyến.
- Ngày 25/10/1965, đoàn xe ô tô đầu tiên chở hàng vào chiến trường, mở đầu cho giai đoạn vận tảI cơ giới ở Trường Sơn.
- Đơn vị bắn rơi nhiều máy bay nhất trên tuyến là Tiểu đoàn cao xạ 36, bắn rơi 157 máy bay Mỹ.
- Đại đội 4 súng máy 12,7 ly là đơn vị hai lần Anh hùng, bắn rơi 156 máy bay, bình quân mỗi chiến sỹ bắn rơi 2 máy bay.
- Ngày 3/3/1971, toàn tuyến bắn rơi 16 chiếc, riêng D28 hạ 8 chiếc.
- Ngày 5/3/1971, toàn tuyến bắn rơi 40 chiếc, riêng D24 anh hùng hạ tại chỗ 19 chiếc.
- Ngày 18/2/1971, trong 25 phút chiến đấu, D24 hạ tại chỗ 18 máy bay Mỹ (cả phản lực và trực thăng).
- Ngày 16/6/1973, hai đồng chí Nguyễn Văn Thể và Lê Văn Thái (chiến sĩ thông tin) bắn rơi tại chỗ 1 máy bay F4 bằng 2 viên đạn AK.
- Trong mùa khô 1969 – 1970 đồng chí Bùi Xuân Nơ (chiến sĩ công binh) hạ tại chỗ 1 máy bay F4 bằng 9 viên đạn súng trung liên.
- Anh hùng Nguyễn Viết Sinh (Tiểu đoàn 11, Binh trạm 3) gần 6 năm làm nhiệm vụ gùi, thồ, vận chuyển hàng vượt Trường Sơn; tổng cộng chặng đường anh vượt bằng độ dài vòng quanh trái đất. 5 năm kể từ khi nhập ngũ cho tới lúc bị thương ở Tà Khống (đầu năm 1966), hầu như anh không ốm và nghỉ ngày nào.
- Dấu chân lõm sâu trong thớ đá: Cuối năm 1966, ta mở đường 20 (đường Quyết thắng), đường giao liên chạy song song cũng được hình thành, các trạm giao liên T6, T7, T8 được lập nên nối thành hệ thống giao liên hoàn chỉnh. ở trước trạm T6, địa thế hiểm hóc, có một hòn đá bên cạnh suối, bất cứ ai đi qua cũng phải đặt chân lên đó. Hàng triệu dấu chân ngày nọ tiếp ngày kia lần lượt giẫm lên làm cho hòn đá lõm hẳn xuống vài cm in rõ dấu chân người. Hiện hòn đá đó đang được trưng bày tại Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh.
- Trong chiến dịch phản công chống cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của địch (3/1971), các lực lượng Bộ đội Trường Sơn đã bắn rơi 365 máy bay, diệt 8.105 tên, bắt sống 1.160 tên địch, phá huỷ 136 xe tăng, xe cơ giới và 86 khẩu pháo.
- Trong 8 năm chiến đấu ở Trường Sơn, Trung đoàn 98 công binh – đơn vị AHLLVTND đã mở được 2.000km đường ô tô, 500km đường giao liên, khai thông 200km đường sông, bắc 400 cầu, bắn rơi 38 máy bay, diệt 137 tên biệt kích, thám báo.
- Máy thăm dò điện tử của Mỹ cũng…”bị lừa”: Quân đội Mỹ đã sử dụng máy thăm dò điện tử rải xuống khắp vùng núi rừng Trường Sơn, nó có khả năng đoán biết sự có mặt của con người (thông qua phân tích chất thải của con người). Chiến sĩ Trường Sơn đã dùng những thùng nước giải của bộ đội đặt rải rác trong rừng, để rồi theo sự chỉ dẫn của máy thăm dò điện tử, từng tốp máy bay lao vào những nơi không có bóng người trút bom xuống.
- Chiến tranh bằng mưa: Đây không phải là giả định mà là một phát minh kỹ thuật của Mỹ hòng ngăn chặn, đánh phá Đường Hồ Chí Minh. Phát minh này được Lầu năm góc áp dụng ngay lập tức vào năm đầu của thập kỷ 70. Người ta ném vào trong mây vô số những tinh thể chất muối iốt bạc để gây lên những trận mưa nhiều hơn mức bình thường. Trong những đám mây còn có hoá chất ăn mòn kim loại, xe cộ và các phương tiện bằng sắt khác.
4. Binh đoàn 12 – Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (1977 – 2019):
- Xây dựng cơ bản đường Đông Trường Sơn dài gần 2.000km; xây dựng Đường 279 dài gần 1.000km (đường vành đai chiến lược biên giới phía Bắc từ Quảng Ninh đến Lai Châu)
- Tham gia xây dựng các công trình trên khắp mọi miền của Tổ quốc, từ biên giới phía Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; từ đất liền ra hải đảo, trong đó có nhiều công trình trọng điểm của Nhà nước như: Công trình cầu đường bộ, đường sắt, đường cao tốc, sân bay, bến cảng, thuỷ điện, thủy lợi…Đào đắp gần 180 triệu m3 đất đá
- Làm nhiệm vụ quốc tế: Tại nước CHDCND Lào, Binh đoàn đã tham gia xây dựng lại các tuyến đường số 1, 5, 7, 8, 9, 13, 15; bảo đảm giao thông 588km; xây dựng 12 trạm xá, 7 trường học, vận chuyển hàng ngàn tấn hàng, xây dựng nhà ga, Sân bay Savanakhet, Sân bay Lạc Sao; xây dựng QL78 – Campuchia
- Thực hiện tốt công tác dân vận, công tác chính sách xã hội; Khám và chữa bệnh miễn phí cho hàng chục ngàn lượt người ở các địa phương, chủ yếu là đồng bào dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Tiếp đón và giải quyết chính sách tồn đọng về khen thưởng, thương binh, liệt sỹ vv… của Đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn và TNXP trên 20 ngàn lượt người.
5. Khen thưởng:
a). Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1959 – 1975):
Đảng, Nhà nước tuyên dương AHLLVTND cho tập thể Bộ đội Trường Sơn (ngày 03/6/1976); 82 tập thể và 51 cá nhân thuộc Bộ đội Trường Sơn được tuyên dương AHLLVTND (có 4 đơn vị cấp Sư đoàn, 17 đơn vị cấp Trung đoàn, 32 tiểu đoàn, 25 đại đội, 1 Đội điều trị quân y, 1 Trạm sửa chữa ô tô, 1 trạm giao liên; trong đó có 3 đơn vị được tuyên dương Đơn vị Anh hùng lần thứ hai). Đặc biệt nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh – Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn; Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng cho các thế hệ Bộ đội Trường Sơn (Huân chương cao quý nhất của Đảng, Nhà nước ta).
202 lượt tập thể được tặng thưởng Huân chương Quân công, 4.814 Huân chương chiến công và 11.000 Huân, Huy chương các loại.
b). Trong thời kỳ xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng (1976 – 2019): Binh đoàn 12 – Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn được khen thưởng:
- Huân chương Hồ Chí Minh.
- Huân chương Độc lập hạng Nhất
- 3 Huân chương Quân công (2 hạng Nhất, 1 hạng Nhì).
- HCLĐ hạng Nhất, HCLĐ hạng Nhì, 2 HCLĐ hạng Ba.
- Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất.
- 6 năm liền (1981 – 1985) được nhận cờ thi đua của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); 5 công trình do được tặng “Huy chương vàng” và Bằng chứng nhận công trình chất lượng cao.
- 5 tập thể được tuyên dương AHLLVTND (3 trung đoàn,1 đại đội và 1 đội)
- 3 tập thể và 3 cá nhân được tuyên dương AHLĐ thời kỳ đổi mới.
BT: Ban Tuyên huấn Binh đoàn.